Quốc vương Faisal_của_Ả_Rập_Xê_Út

Năm 1967, Quốc vương Faisal thiết lập chức vụ thủ tướng thứ hai và bổ nhiệm Hoàng tử Fahd vào chức vụ này.[31]

Khi đăng cơ, Quốc vương Faisal vẫn xem việc khôi phục tài chính quốc gia là ưu tiên chính của mình. Ông tiếp tục theo đuổi các chính sách tài chính thận trọng trong những năm đầu trị vì, và các mục tiêu của ông về cân bằng ngân sách quốc gia cuối cùng đã thành công, nhờ gia tăng sản lượng dầu mỏ.

Trong thời kỳ đầu cai trị, ông ban hành một chiếu chỉ quy định rằng mọi hoàng tử phải cho con đi học ở trong nước, thay vì đưa ra nước ngoài; điều này cũng có tác động khiến các gia đình thượng lưu đưa con về học trong nước cho "hợp thời".[32] Quốc vương Faisal cũng áp dụng hệ thống vùng hành chính hiện hành của vương quốc, và đặt nền tảng cho một hệ thống phúc lợi hiện đại. Năm 1970, ông thành lập Bộ Tư pháp và mở đầu "kế hoạch 5 năm" đầu tiên của quốc gia về phát triển kinh tế.[33]

Phát sóng truyền hình chính thức bắt đầu vào năm 1965. Năm 1966, một người cháu trai của Faisal tên là Khaled tấn công trụ sở mới của đài truyền hình quốc gia song bị nhân viên an ninh giết chết. Người tấn công này là anh trai của kẻ ám sát Faisal sau này, và sự kiện tại đài truyền hình được chấp thuận rộng rãi là động cơ giết người.[34] Bất chấp phản đối từ lực lượng bảo thủ về các cải cách của mình, Quốc vương Faisal tiếp tục theo đuổi hiện đại hoá đồng thời luôn đảm bảo rằng các chính sách của mình nằm trong khuôn khổ Hồi giáo.

Quốc vương Faisal và nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi vào đầu thập niên 1970

Trong các thập niên 1950 và 1960, có nhiều vụ đảo chính xảy ra trong khu vực, và cuộc đảo chính của Muammar al-Gaddafi lật đổ chế độ quân chủ tại đất nước Libya nhiều dầu mỏ vào năm 1969 đặc biệt đáng ngại đối với Ả Rập Xê Út do tính tương đồng giữa hai quốc gia hoang mạc có dân cư thưa thớt này.[35] Do đó, Quốc vương Faisal tiến hành gây dựng một bộ máy an ninh tinh vi và kiên quyết đàn áp những người bất đồng quan điểm. Giống như trong mọi vấn đề khác, Faisal biện minh cho các chính sách này dựa vào các điều khoản Hồi giáo. Trong thời kỳ đầu cai trị, khi đối diện với các yêu cầu về hiến pháp thành văn cho quốc gia, Quốc vương Faisal đáp rằng "hiến pháp của chúng ta là Quran".[36] Vào mùa hè năm 1969, Quốc vương Faisal ra lệnh bắt giữ hàng trăm sĩ quan quân đội, trong đó có một số tướng lĩnh,[1][37] cáo buộc họ lên kế hoạch đảo chính quân sự.[38] Cuộc đảo chính chủ yếu được các sĩ quan không quân lên kế hoạch và nhằm mục tiêu lật đổ chế độ quân chủ và thành một một chế độ theo chủ nghĩa Nasser trong nước.[38] Các vụ bắt giữ có lẽ dựa trên một đầu mối từ tình báo Hoa Kỳ.[35]

Quốc vương Faisal dường như có quan điểm đa nguyên, chiếu cố hạn chế, thận trọng dàn xếp các yêu cầu của dân chúng đối với cải cách tổng thể, và tiến hành nhiều nỗ lực nhằm mở rộng quyền đại diện chính trị, dẫn tới một chính sách thống nhất dân tộc thành công tạm thời từ năm 1965 đến năm 1975. Quốc vương Faisal nhận thức được tính đa dạng về tôn giáo và văn hoá trong nước, trong đó khu vực Ahsa ở phía đông chủ yếu là người Shia; còn khu vực Asir ở phía tây nam có các mối quan hệ bộ lạc với Yemen, đặc biệt là trong các bộ lạc theo giáo phái Ismail tại NajranJizan; và khu vực Vương quốc Hejaz cũ có thủ đô là Mecca. Ông đưa những người Hejaz Sunni phi Wahhabi, theo chủ nghĩa toàn cầu từ Mecca và Jeddah vào trong chính phủ Ả Rập Xê Út. Tuy nhiên, sau thời ông cai trị, kỳ thị dựa trên giáo phái, bộ lạc, tôn giáo và giới tính trở nên phổ biến và duy trì cho đến nay.[39]

Vai trò và quyền lực của ulema suy thoái sau khi Faisal đăng cơ dù họ đã đưa ông lên ngôi vào năm 1964. Mặc dù ông mộ đạo và có quan hệ huyết thống đằng ngoại với gia tộc Al as Shaykh, và ông ủng hộ phòng trào liên Hồi giáo trong cuộc đấu tranh của mình chống chủ nghĩa liên Ả Rập, song ông giảm thiểu quyền lực và ảnh hưởng của ulema.[40] Không như người kế nhiệm mình, Quốc vương Faisal nỗ lực nhằm đảm bảo rằng các giáo sĩ cấp tiến nhất sẽ không giữ các chức vụ tôn giáo có quyền lực nhất trong xã hội. Ông cố gắng ngăn chặn các giáo sĩ cực đoan để họ không chi phối được các tổ chức tôn giáo như Hội đồng Ulema cao cấp, tức cơ quan tôn giáo tối cao của vương quốc, hoặc là leo lên các chức vụ tôn giáo cấp cao như đại mufti. Tuy nhiên, giống như một số cố vấn của quốc vương từng cảnh báo trước đó, một khi những người cuồng tín tôn giáo bị kích động thì họ sẽ quay lại ám ảnh vương quốc.[27] Quốc vương Faisal bác bỏ phản đối của ulema về các khía cạnh trong nỗ lực hiện đại hoá nhanh chóng của ông, thậm chí đôi khi là trong các vấn đề mà họ cho là mang tính trọng đại.[40]

Tham nhũng trong hoàng gia rất nghiêm trọng theo quan điểm của một nhóm tôn giáo có định hướng căn bản dựa vào các trường thần học Hồi giáo và họ thách thức một số diễn giải thần học được chế độ Saud chấp thuận. Một nhân vật có ảnh hưởng là Shaykh bin Baz, đang là hiệu trưởng của trường thần học Al Medina. Quốc vương Faisal không dung thứ lời phê bình của người này và bãi chức ông ta. Tuy nhiên, lời giáo huấn của Shaykh bin Baz đã làm cấp tiến hoá một số sinh viên của ông ta, trong đó có Juhayman al-Otaybi.[41]

Chế độ nô lệ vẫn tồn tại trong Vương quốc Ả Rập Xê Út cho đến khi Quốc vương Faisal ban một chiếu chỉ bãi bỏ hoàn toàn nó vào năm 1962. Peter Hobday viết rằng có khoảng 1.682 nô lệ được phóng thích vào khi đó, chính phủ trả phí 2.000 USD cho mỗi người.[41] Có lập luận rằng Hoa Kỳ bắt đầu nên lên vấn đề chế độ nô lệ sau cuộc gặp giữa Quốc vương Abdulaziz và Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt vào năm 1945 và rằng John F. Kennedy cuối cùng đã thuyết phục được Nhà Saud bãi bỏ chế độ này vào năm 1962.[42]

Ngoại giao

Tổng thống Nasser của Ai Cập, thủ lĩnh chính trị Palestine Yasser Arafat và Quốc vương Faisal trong một hội nghị thượng đỉnh Ả Rập, tháng 9 năm 1970Quốc vương Faisal, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và phu nhân Pat Nixon (27 tháng 5 năm 1971)

Trên cương vị là quốc vương, Faisal tiếp tục quan hệ liên minh mật thiết với Hoa Kỳ từ thời cha mình, và dựa nhiều vào Hoa Kỳ trong việc trang bị vũ trang và huấn luyện quân đội. Quốc vương Faisan cũng là người theo chủ nghĩa chống cộng sản, ông từ chối bất kỳ liên hệ chính trị nào với Liên Xô và các quốc gia khác trong khối cộng sản, tuyên bố rằng nhận thấy tính không tương hợp hoàn toàn giữa chủ nghĩa cộng sản với Hồi giáo,[1][43] và liên kết chủ nghĩa cộng sản với thứ chủ nghĩa phục quốc Do Thái[44] mà ông chỉ trích gay gắt. Ông duy trì quan hệ mật thiết với các nền dân chủ Tây phương như Anh, và trong chuyến thăm cấp nhà nước vào năm 1967, ông đã biếu Nữ vương Elizabeth II một chuỗi hạt kim cương.[45]

Quốc vương Faisal cũng ủng hộ các phong trào bảo hoàng và bảo thủ trong thế giới Ả Rập, và tìm cách chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc Ả Rập trong khu vực bằng cách xúc tiến chủ nghĩa liên Hồi giáo để thay thế. Cuối cùng, ông kêu gọi thành lập Liên đoàn Thế giới Hồi giáo, đến thăm một số quốc gia Hồi giáo để ủng hộ ý tưởng này. Ông cũng tham gia vào một cuộc chiến tuyên truyền và truyền thông với Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser theo chủ nghĩa liên Ả Rập, và tham gia một cuộc chiến uỷ nhiệm với Ai Cập tại Bắc Yemen, cuộc chiến này kéo dài cho đến năm 1967. Tuy nhiên Faisal chưa bao giờ dứt khoát cự tuyệt chủ nghĩa liên Ả Rập, và tiếp tục kêu gọi củng cố liên Ả Rập theo nghĩa rộng.

Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 9 năm 1969, Quốc vương Faisal triệu tập một hội nghị tại Rabat, Maroc nhằm thảo luận về cuộc tấn công Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa tại Jerusalem trong tháng trước đó. Các nhà lãnh đạo của 25 quốc gia Hồi giáo tham dự và hội nghị kêu gọi Israel từ bỏ lãnh thổ mà họ chiếm đóng vào năm 1967. Hội nghị cũng thành lập Tổ chức Hợp tác Hồi giáo và cam kết ủng hộ người Palestine.[46]

Sau khi Nasser mất vào năm 1970, Quốc vương Faisal gần gũi hơn với tổng thống mới của Ai Cập là Anwar Sadat, nhân vật này đang có kế hoạch đoạn tuyệt với Liên Xô và chuyển sang phe thân Mỹ. Trong Chiến tranh Ả Rập-Israel 1973 do Sadat phát động, Quốc vương Faisal rút dầu mỏ của Ả Rập Xê Út khỏi thị trường thế giới nhằm phản đối phương Tây ủng hộ Israel trong xung đột. Hành động này làm giá dầu tăng cao, và là nguyên nhân chính đằng sau của Khủng hoảng dầu mỏ 1973. Đây là hành động ghi dấu ấn trong sự nghiệp của Quốc vương Faisal, và mang lại cho ông uy tín lâu dài trong trong thế giới Ả Rập và Hồi giáo. Năm 1974, ông trở thành nhân vật trong năm của Tạp chí Time. Lợi ích tài chính từ cuộc khủng hoảng đã thúc đẩy bùng nổ kinh tế tại Ả Rập Xê Út sau khi ông mất. Nguồn thu mới từ dầu mỏ cũng cho phép Faisal tăng cao viện trợ và trợ cấp từ sau Chiến tranh Ả Rập-Israel 1967[2] cho Ai Cập, Syria, và Tổ chức Giải phóng Palestine.[47] Tồn tại một niềm tin phổ biến tại Ả Rập Xê Út, cũng như thế giới Ả Rập, rằng cuộc tẩy chay dầu mỏ của Quốc vương Faisal là nguyên nhân chính khiến ông bị ám sát, qua một âm mưu của Tây phương.[48][49]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Faisal_của_Ả_Rập_Xê_Út http://www.arabnews.com/node/221293 http://www.bfg-global.com/pdfnw/pdf/eng/1-ensalman... http://www.bookrags.com/biography/faisal-ibn-abd-a... http://www.ceri-sciencespo.com/publica/critique/46... http://www.cnn.com/2006/WORLD/meast/12/12/usa.saud... http://www.datarabia.com/royals/famtree.do?id=1762... http://gulfnews.com/news/gulf/saudi-arabia/sultan-... http://lexicorient.com/e.o/faisal.htm http://www.lifeinriyadh.com/tag/princess http://www.mafhoum.com/press8/249P5.pdf